Thảm họa sụt lún, sạt lở
Theo Chi cục Thủy lợi và Tài nguyên khoáng sản, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Vĩnh Long từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra 39 điểm sạt lở đất bờ sông, kênh rạch ở các huyện Trà Ôn, Long Hồ, Vũng Liêm với tổng chiều dài khoảng 1 km. Các vụ sạt lở gây hư hại nhiều công trình, nhà cửa của 31 hộ dân và ảnh hưởng đến kết cấu của nhiều đoạn đường nông thôn. Uớc tổng thiệt hại do sạt lở gây ra trên 2,1 tỷ đồng. Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang cũng phát cảnh báo toàn tỉnh khi xuất hiện 56 đoạn sông nguy cơ sạt lở từ mức độ bình thường đến đặc biệt nguy hiểm. Các địa phương có đoạn sông nguy cơ sạt lở cao như: Đoạn sông Tiền chảy qua xã Phú An (huyện Phú Tân); đoạn sông Hậu chảy qua xã Châu Phong (thị xã Tân Châu); đoạn sông Hậu chảy qua xã Bình Mỹ (huyện Châu Phú); đoạn sông Hậu, sông Vàm Nao chảy qua huyện Chợ Mới và đoạn sông Hậu chảy qua xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên.
.jpg)
Không dừng lại, chỉ trong thời gian ngắn, từ ngày 18 - 22/5 trên địa bàn các huyện Chợ Mới, Châu Thành xảy ra liên tiếp 4 vụ sạt lở đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân. Trước đó, sáng ngày 18/5, bờ sông đoạn rạch ông Chưởng, trên Tỉnh lộ 946, thuộc xã Long Điền B (huyện Chợ Mới) xảy ra sạt lở kéo dài 70m, chiều sâu đoạn sạt lở khoảng 5 - 6m, có nguy cơ kéo dài khoảng 200m, khiến 10 căn nhà của người dân sống cặp rạch ông Chưởng bị ảnh hưởng, ước tổng thiệt hại khoảng 2 tỷ đồng… Dự báo tình trạng sạt lở đất sẽ còn tiếp diễn ven bờ sông, kênh rạch và có nguy cơ tác động lớn đến các công trình và nhà cửa.
Ông Cù Minh Trọng, Chủ tịch UBND huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cho biết, nguyên nhân các vụ sạt lở trên địa bàn được xác định là do ảnh hưởng dòng chảy, đoạn sông có nhiều khúc cua, các loại ghe, tàu công suất lớn lưu thông nhiều cũng là nguyên nhân.
.jpg)
Riêng tuyến biển Đông và Tây của tỉnh Cà Mau, mỗi năm mất từ 400-500 héc ta đất rừng ngập mặn. Rừng phòng hộ bị thu hẹp, lá chắn bảo vệ vùng đất trong đê ngày càng mỏng dần, khiến hàng ngàn héc ta đất sản xuất và khu dân cư trước nguy cơ bị triều cường xâm thực. Nguyên nhân sạt lở không đơn lẻ.
Một phần đến từ khai thác cát quá mức khiến lòng sông hạ thấp và dòng chảy thay đổi. Một phần do lượng phù sa từ thượng nguồn giảm đáng kể vì hệ thống đập thủy điện. Và một phần rất lớn là do biến đổi khí hậu khiến triều cường tăng cao, sóng biển xâm thực mạnh hơn, đặc biệt vào mùa gió chướng (tháng 11 đến tháng 02 âm lịch).
Ngoài ra, sự khai thác nước ngầm quá mức phục vụ sản xuất và sinh hoạt trong nhiều thập kỷ cũng khiến ĐBSCL đang lún xuống. Tốc độ lún tại nhiều khu vực được ghi nhận trung bình từ 1 - 3cm mỗi năm, có nơi lên tới 5cm, trước tình hình nước biển dâng, khiến vùng đất vốn thấp nay lại càng trũng hơn. Bài toán giữ đất vì thế không chỉ là chống sạt lở, mà còn là bài toán đồng bộ giữa bảo vệ bờ sông bờ biển, quản lý nguồn tài nguyên nước ngầm, và quy hoạch lại dân cư, hạ tầng theo hướng thích ứng biến đổi khí hậu.
Giữ nước, bài toán sống còn
Nếu như “giữ đất” là giữ lấy nền tảng, thì “giữ nước” là giữ lấy nguồn sống. Ở ĐBSCL, chuyện nước không còn đơn giản là nhiều hay ít, mà là thừa khi mưa lớn ngập úng; thiếu khi nắng hạn. Năm 2024, ĐBSCL chứng kiến một mùa triều cường kỷ lục. Mực nước tại các trạm ở TP. Cần Thơ, tỉnh Vĩnh Long đều vượt báo động 3, gây ngập diện rộng ở nội đô và vùng trũng thấp. Ngập không chỉ diễn ra trong mùa mưa mà kéo dài vào mùa khô, khi mưa trái mùa kết hợp với triều cường. Hệ thống tiêu thoát nước đô thị và kênh mương nội đồng vốn lạc hậu càng không theo kịp biến động thời tiết cực đoan.
.jpg)
Ở chiều ngược lại, mùa khô từ tháng 02 đến tháng 4 hàng năm, nước ngọt trở nên khan hiếm. Theo báo cáo của Tổng cục Thủy lợi (Bộ NN&PTNT), mùa khô 2024-2025, ranh mặn 4‰ đã xâm nhập sâu từ 45-60km trên các sông lớn như Vàm Cỏ, Cửa Tiểu, Cửa Đại, Hàm Luông… Ước tính có khoảng 74.000 hộ dân thiếu nước sinh hoạt, hàng chục ngàn héc ta lúa và ao nuôi thủy sản bị ảnh hưởng. Điều đáng nói, xâm nhập mặn ở ĐBSCL không còn là hiện tượng nhất thời, mà đã mang tính quy luật. Trong khi đó, công tác trữ nước ngọt của vùng còn gặp nhiều khó khăn.
Giữ đất, giữ nước xét đến cùng là giữ sinh kế, giữ ổn định dân sinh, giữ vị thế thủ phủ nông nghiệp của ĐBSCL. Để làm được điều đó, cần một chiến lược dài hạn, căn cơ và tích hợp giữa các ngành, các địa phương trong vùng. Trước hết, phải đầu tư vào hệ thống công trình thủy lợi thông minh, có khả năng kiểm soát mặn giữ ngọt tiêu úng linh hoạt. Những công trình như cống Cái Lớn - Cái Bé (tỉnh Kiên Giang), các trạm bơm điện tại tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu... Kế đó, tăng cường trồng rừng ven biển và phục hồi rừng ngập mặn được ví như “lá chắn sinh học” bảo vệ bờ biển. Các chương trình phối hợp với cộng đồng địa phương để trồng rừng, kết hợp nuôi trồng thủy sản sinh thái (mô hình rừng - tôm) cho thấy hiệu quả bền vững cả về môi trường và kinh tế.
ĐBSCL không chỉ là vựa lúa, thủy sản của cả nước, mà còn là lưu giữ bao đời văn hóa sông nước. Giữ đất, giữ nước chính là giữ lấy tương lai cho hàng chục triệu người dân sống dựa vào phù sa, dòng chảy và những mùa nước nổi. Giữ được đất, nước không dễ, nhưng mất đi thì không gì có thể bù đắp. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, tư duy ứng phó cần đổi mới, hành động phải quyết liệt, đồng bộ và sự đồng hành của toàn xã hội. Có như thế mới bảo vệ được vùng đất ĐBSCL trước làn sóng sạt lở, sụt lún, xâm nhập mặn.