
Hiện nay, tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp theo hướng đa cực, đa trung tâm, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt. Nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang, tác động từ an ninh phi truyền thống… đặt ra nhiều thách thức chưa từng có tiền lệ. Trong bối cảnh đó, không ít quốc gia thiếu hoạch định chiến lược đã rơi vào vòng xoáy khủng hoảng, lệ thuộc thậm chí mất quyền kiểm soát nhà nước.
Từ một nước có nền kinh tế lạc hậu, bị tàn phá bởi chiến tranh, Việt Nam đang từng bước vươn lên, định hình rõ nét trên bản đồ địa chính trị thế giới bằng chính con đường phát triển riêng. Đó là sự kết hợp biện chứng giữa giá trị truyền thống và xu hướng hiện đại, giữa bản sắc dân tộc và dòng chảy thời đại; đặc biệt luôn giữ vững bản lĩnh, tinh thần độc lập tự chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với cơ chế quản trị phù hợp thực tiễn: Lãnh đạo tập trung, thống nhất, cầu thị đổi mới; phát triển kinh tế gắn với công bằng, tiến bộ xã hội; chính sách có khả năng thích ứng linh hoạt trước biến động toàn cầu. Điều khác biệt của Việt Nam với các nước là năng lực lãnh đạo, điều hành, sự đồng thuận xã hội và niềm tin chiến lược. Trong khi đó, một số quốc gia rơi vào khủng hoảng do sự phân cực xã hội, rối loạn quyền lực, dân chủ hình thức, lợi ích nhóm thao túng chính sách… đã bào mòn lòng tin của người dân.
Không chỉ ghi dấu ấn bằng những thành tựu kinh tế, Việt Nam còn được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về cải cách thể chế, xây dựng Chính phủ điện tử; quan tâm phát triển KHCN, giáo dục, y tế, an sinh xã hội. Đặc biệt, tầm nhìn chiến lược mới thể hiện ở 03 định hướng lớn: Chuyển đổi xanh - số - bền vững; phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN lấy con người làm trung tâm và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hiện đại, liêm chính, phục vụ Nhân dân.
Trong hoạt động đối ngoại, Việt Nam trở thành đối tác tin cậy, kiên định nguyên tắc ngoại giao, hợp tác vì hòa bình và phát triển, không lệ thuộc, không thỏa hiệp. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh: Nhân dân là chủ thể của lịch sử, là nguồn sức mạnh quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn vào tháng 02/1951 tại Đại hội lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Lời dạy của Người đã trở thành kim chỉ nam cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sức mạnh của một quốc gia không chỉ có tiềm lực quân sự, kinh tế mà trước hết phải bắt nguồn từ lòng dân, từ niềm tin, sự đoàn kết, đồng thuận của các tầng lớp Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều này được minh chứng rõ nét với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và giành toàn thắng trong 02 cuộc kháng chiến trường kỳ.
Sau ngày hòa bình, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, Nhân dân ta không ngừng thi đua tăng gia sản xuất, học tập, góp sức khắc phục hậu quả chiến tranh, kiến thiết quê hương. Và khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới năm 1986, Nhân dân vẫn luôn một lòng theo Đảng, giữ vững niềm tin son sắt vào sự lãnh đạo của Đảng. Năm 1991, Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ, nhiều quốc gia rơi vào khủng hoảng nhưng Nhân dân Việt Nam vẫn kiên định con đường cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã chọn. Chính niềm tin ấy đã giúp đất nước vượt qua “cơn sóng dữ” của thời cuộc, tiếp tục phát triển cơ đồ vững mạnh như ngày nay.
10 năm gần đây, Việt Nam tiếp tục bứt phá mạnh mẽ trong chuyển đổi số quốc gia, tích cực thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy Nhà nước hiệu lực, hiệu quả. Cùng với đó, các chính sách an sinh xã hội, đầu tư hạ tầng, phát triển công nghệ, kinh tế xanh, năng lượng tái tạo… đã tạo ra những chuyển động tích cực trong đời sống Nhân dân. Một lần nữa, lòng tin của Nhân dân với Đảng, với chế độ XHCN tiếp tục được củng cố vững chắc, trở thành điểm tựa để đất nước đương đầu trước những thách thức toàn cầu.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta là minh chứng rõ nhất, khi lòng dân quy tụ, thế nước ắt vững vàng. “Thế trận lòng dân” chính là gốc rễ của mọi thắng lợi. Hay nói cách khác, chính sự đồng thuận xã hội, niềm tin của Nhân dân là nguồn lực nội sinh mạnh mẽ để giữ ổn định chính trị, phát triển bền vững, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Hơn bao giờ hết, trong bối cảnh hiện nay, việc củng cố lòng tin của Nhân dân với Đảng trở thành nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Càng đổi mới, hội nhập sâu rộng, càng phát huy sức mạnh lòng dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Và khi gặp gian khó, thách thức, “thế trận lòng dân” càng phải được củng cố để đất nước ta vững bước đi lên CNXH. Mọi đường lối, chính sách đều xuất phát từ lợi ích của dân, dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, để “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Khi ý Đảng quyện lòng Dân sẽ tạo nền tảng vững chắc xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.
Kỳ cuối: Hiện thực hóa khát vọng hùng cường
Kỳ 1: Không thể áp đặt mô hình